(1917-1985) Nobel Văn chương 1972
Sinh ngày 21-12-1917 tại thành phố Cologne cổ kính. Lớn lên, ông học nghề buôn sách, nửa chừng thì bỏ. Đến năm 1939, ông bắt đầu học các môn Đức học và cổ ngữ văn học. Trong thế chiến thứ hai, ông đi lính, bị thương nhiều lần và bị Anh Pháp bắt làm tù binh. Năm 1945, ông trở về sinh quán học tiếp môn Đức học, đồng thời làm nhiều việc để sống. Từ 1951 trở đi, ông thật sự hành nghề viết văn, mặc dù ông đã viết truyện ngắn từ bốn năm trước. Với cuốn “Bi a vào lúc chín giờ rưỡi” xuất bản năm 1959, ông bắt đầu nổi tiếng. Năm 1969, ông nhận học bổng của Villa Massimo, một tổ chức văn hóa quan trọng, và đi thăm quan các nước Ailen, Liên Xô và Hoa Kỳ. Ba năm sau, ông dạy môn nghệ thuật thơ ở đại học Franctort bên sông Main. 1972, ông được giải Nobel văn chương. Từ 1971 đến 1974, ông là chủ tịch hội Văn bút quốc tế (PEN International). Sau bốn mươi năm hoạt động trong nhiều lãnh vực, ông qua đời vào ngày 16-7-1985. Ngoài một số lớn tiểu thuyết, truyện vừa và truyện ngắn, ông để lại nhiều bài thơ, kịch, truyện châm biếm, tiểu luận, luận văn chính trị và văn chương cũng như nhiều truyện dịch, nhất là từ tiếng Ailen.
Böll sinh ở Köln, là con thứ tám của một thợ cả nghề mộc theo Công giáo. Ông bắt đầu làm thơ và viết truyện ngắn từ rất sớm. Năm 1937, sau khi tốt nghiệp trung học, Böll theo học nghề kinh doanh sách ở Köln. Năm 1938 Böll bị huy động vào quân đội dự bị của Đệ Tam Đế chế Đức; trước khi nhập ngũ ông học một học kì ngành Đức ngữ và Ngữ văn cổ điển tại thành phố quê hương; mấy lần bị thương, năm 1945 bị quân đội Mỹ bắt làm tù binh, giam mấy tháng ở miền Nam nước Pháp. Trở về quê, Böll tiếp tục đi học và kiếm sống bằng những công việc không thường xuyên. Năm 1943, ông kết hôn với cô giáo Anne Maria Sech.
Năm 1949 Heinrich Böll trình làng truyện vừa đầu tiên Der Zug war pünktlich (Chuyến tàu đến đúng giờ), trước đó ông đã có gần 60 truyện ngắn đăng báo; truyện phản ánh cuộc sống đời thường sau chiến tranh, văn phong đơn giản hóa một cách chủ ý. Tính vô nghĩa của cuộc chiến tranh đúc rút từ những trải nghiệm cá nhân nhân vật là chủ đề trung tâm trong những tác phẩm này và cũng là đề tài chủ đạo xuyên suốt toàn bộ sáng tác về sau của Böll, thường được gọi là dòng "văn học hoang tàn". Năm 1951 với truyện ngắn Die schwarzen Schafe (Con cừu đen) Böll được trao giải thưởng "Nhóm 47" của Hội Nhà văn Đức hậu chiến. Tác phẩm có thể coi là hoành tráng đầu tiên của Böll là Billard um halb zehn (Ván bi-a lúc chín rưỡi, 1959) được viết với văn phong và cấu trúc phức tạp hơn; tiếp đó là Ansichten eines Clowns (Qua con mắt của chú hề, 1963) nói về tự do cá nhân giữa những sức ép mang tính xã hội và chính trị.
Năm 1971 ra đời tiểu thuyết lớn nhất của Heinrich Böll là Gruppenbild mit Dame (Bức chân dung tập thể với một quý bà) mô tả các sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian 1899-1970 với đối tượng chỉ trích là nhà thờ và "xã hội thành đạt". Năm 1972, khi Böll được trao giải Nobel, cuốn tiểu thuyết này được đặc biệt đánh giá cao. Năm 1974, được bầu làm Chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế, Böll nhiệt tình giúp đỡ những nhà văn gặp khó khăn, đóng góp đáng kể cho tổ chức này. Chính Böll đã đón nhà văn Nga lưu vong Alexandr Isayevich Solzhenitsyn về sống chung một thời gian, và ông ngày càng tích cực tham gia vào các cuộc tranh luận chính trị. Trong thập niên 1980, Böll trở thành một trong những nhà lãnh đạo phong trào hòa bình và chống sử dụng vũ khí hạt nhân. Ngoài sự nghiệp sáng tác, Böll còn là một dịch giả; ông đã cùng với vợ dịch hàng loạt tác phẩm văn học Mỹ. Năm 1985 nhà văn 67 tuổi mất tại nhà riêng của con trai ông ở ngoại ô Bonn.
Tác phẩm:
Das Vermächtnis (Di sản, 1947, in 1985), tiểu thuyết
Der Zug war pünktlich (Chuyến tàu đến đúng giờ, 1949), truyện vừa
Wanderer, kommst du nach Spa (Lãng khách, khi nào người đến Spa, 1950), tập truyện ngắn
Wo warst du, Adam? (Người ở đâu, Adam?, 1951), tiểu thuyết
Die schwarzen Schafe (Con cừu đen, 1951), truyện ngắn
Und sagte kein einziges Wort (Và đã không nói một lời duy nhất, 1953), tiểu thuyết
Haus ohne Hüter (Ngôi nhà không người chăm nom, 1954), tiểu thuyết
Das Brot der frühen Jahre (Bánh mì những năm đầu, 1955), truyện
Billard um halb zehn (Ván bi-a lúc chín rưỡi, 1959), tiểu thuyết
Ansichten eines Clowns (Qua con mắt của chú hề, 1963), tiểu thuyết
Entfernung von der Truppe (Tự tiện vắng mặt, 1964), truyện
Ende einer Dienstfahrt (Kết thúc một chuyến công cán, 1966), truyện
Frankfurter Vorlesungen (Những bài giảng ở Frankfurt, 1966), tiểu thuyết
Gruppenbild mit Dame (Bức chân dung tập thể với một quý bà, 1971), tiểu thuyết
Die verlorene Ehre der Katharina Blum (Danh dự bị lăng nhục của Katharina Blum, 1974), truyện vừa
Fürsorgliche Belagerung (Sự vây bủa ân cần, 1979), tiểu thuyết
Bild, Bonn, bonnisch (Hình ảnh, Bonn, về Bonn, 1984), tiểu luận
Frauen vor Flusslandschaft (Phụ nữ trên miền sông nước, 1985), tiểu thuyết
Tại Việt Nam, đã dịch và xuất bản các tác phẩm:
Lạc lối về,
Cái mặt buồn của tôi
Danh dự đã mất của Katharina Blum
Đêm thánh vô cùng